Việt Nam có thể trở thành bể chứa carbon lớn của thế giới
Thị trường tín chỉ carbon tự nguyện đang bước vào giai đoạn chín muồi phát triển, với giá cao hơn nhiều lần mức trung bình 3-5 USD giao dịch hơn 20 năm qua.
Thị trường tín chỉ carbon tại Việt Nam đã manh nha từ hơn 20 năm trước. Theo dữ liệu của World Bank, tính đến 2023, Việt Nam có trên 42 triệu tín chỉ được cấp bởi các tổ chức quốc tế Verra, Gold Standard hoặc theo cơ chế phát triển sạch (CDM, thành lập theo Nghị định thư Kyoto 1997). Các tín chỉ giao dịch chủ yếu thuộc lĩnh vực năng lượng tái tạo, biogas… . thu về gần chục triệu USD mỗi dự án. Hiện nay, các tín chỉ từ rừng trồng mới có giá trung bình 20 USD, trong khi công nghệ than sinh học đạt tới 150 USD. Quy đổi ra giá, mỗi tín chỉ carbon quanh 3-5 USD.
“Việt Nam có thể tận dụng thế mạnh về nông – lâm nghiệp, trở thành bể chứa carbon lớn của thế giới”, ông Trần Quang Minh – Tổng giám đốc Công ty cổ phần thương mại và đầu tư tín chỉ carbon Việt Nam (Carbon Credits Vietnam) nói với VnExpress.
Tín chỉ carbon (carbon credit) là một loại giấy phép hoặc chứng chỉ có thể giao dịch, có giá trị mua bán và cung cấp cho người nắm giữ tín chỉ quyền phát thải một tấn CO2 hoặc loại khí thải khác nằm trong danh sách khí thải nhà kính.
Thị trường tín chỉ này đang bước vào giai đoạn chín muồi của sự phát triển, theo giới phân tích, nhờ chất lượng tín chỉ cao hơn trước và giá gấp nhiều lần mức cũ trong bối cảnh khung pháp lý dần hình thành và hướng tới Net Zero vào 2050. Ví dụ, các loại tín chỉ chất lượng cao từ rừng trồng mới được các công ty công nghệ nước ngoài hỏi mua nhiều, giá trung bình 20 USD mỗi tín chỉ. Mức này gấp 4 lần khoản World Bank chi trả cho mỗi tấn CO2 giảm thải do hạn chế được mất và suy thoái rừng (REDD+) hồi đầu năm ngoái, theo ông Trần Quang Minh.

Nhiều doanh nghiệp đang đẩy mạnh tham gia thị trường. Carbon Credits Vietnam triển khai dự án 500 ha tại Phú Thọ, giúp người trồng rừng thu về 800 USD/ha. VinaCapital lập Quỹ VinaCarbon đầu tư vào lâm nghiệp bền vững, nông nghiệp phát thải thấp và xử lý chất thải.
Tuy nhiên, phát triển dự án tín chỉ carbon yêu cầu quy trình phức tạp kéo dài 2-3 năm, với các điều kiện nghiêm ngặt như không chặt trắng rừng, dùng phân hữu cơ và trồng xen cây bản địa. Quy mô tối thiểu 20 ha được khuyến nghị để tối ưu lợi nhuận.
Khung pháp lý cho cơ chế giao dịch trên thị trường tín chỉ carbon
Theo TS. Bùi Duy Tùng, ĐH RMIT, thị trường tín chỉ carbon tại Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển với nhiều bước tiến về khung pháp lý, chính sách và lộ trình triển khai.
Việt Nam đã tạo ra nền tảng pháp lý rõ ràng để phát triển thị trường tín chỉ carbon nhằm thực hiện các cam kết quốc tế về giảm phát thải khí nhà kính. Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020 và Nghị định số 06/2022/NĐ-CP đặt nền móng cho các cơ chế giao dịch tín chỉ carbon.
Theo lộ trình phát triển, từ năm 2022 đến 2027, Việt Nam tập trung vào việc xây dựng các quy định quản lý tín chỉ carbon và triển khai thí điểm cơ chế trao đổi tín chỉ carbon. Trong giai đoạn này, các cơ quan chức năng đã xây dựng quy chế vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon, dự kiến đi vào hoạt động thí điểm vào năm 2025. Đến năm 2028, sàn giao dịch này sẽ chính thức vận hành, mở rộng kết nối với các thị trường carbon trong khu vực và quốc tế.
Trong năm 2024, một công ty tư vấn đã thực hiện giao dịch mua hơn 16 tấn CO₂ giảm phát thải từ một dự án lúa tại Tây Nguyên với mức giá 20 USD/tấn. Thỏa thuận ERPA Bắc Trung Bộ đã chuyển nhượng 10,3 triệu tấn carbon dioxide với đơn giá 5 USD/tấn. Bộ NN&PTNT đang tiếp tục đàm phán chuyển nhượng 5,15 triệu tấn tín chỉ carbon từ vùng Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, với mức giá tối thiểu 10 USD/tấn, đạt tổng giá trị 51,5 triệu USD.
Ngày 2/5/2024, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo tăng cường công tác quản lý tín chỉ carbon nhằm thực hiện đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC).
Mặc dù đã có những bước tiến quan trọng, khung pháp lý cho thị trường tín chỉ carbon tại Việt Nam vẫn đang trong quá trình hoàn thiện. Vì vậy, Chính phủ cần sớm ban hành các quy định chi tiết và hướng dẫn cụ thể để doanh nghiệp có cơ sở tham gia tích cực hơn, đồng thời đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả của thị trường.
Cần 5,6 tỷ đô la đầu tư mỗi năm để đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0
Mục tiêu phát ròng bằng 0 trên thế giới cần 5,6 tỷ đô la đầu tư mỗi năm. Tuy nhiên, mục tiêu này chưa đạt được.
Năm 2024, đầu tư toàn cầu vào năng lượng carbon thấp đạt 2,1 nghìn tỷ USD, tăng 11% so với năm 2023 nhưng chỉ đạt 37% mức cần thiết để đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Trung Quốc dẫn đầu với 818 tỷ USD, trong khi đầu tư tại Mỹ tăng lên 338 tỷ USD, còn EU và Anh giảm. BNEF nhấn mạnh thế giới cần đầu tư 5,6 nghìn tỷ USD mỗi năm từ 2025 đến 2030. Ông Albert Cheung cảnh báo cần đẩy mạnh đầu tư vào khử carbon công nghiệp, thủy điện và thu giữ carbon.

Tận dụng cơ hội từ cuộc cách mạng số và xanh
Việt Nam đã chủ động trong việc bắt nhịp xu thế chuyển đổi kép. Tuy nhiên, cần nhiều hơn nữa các chương trình hành động cụ thể được triển khai hiệu quả để doanh nghiệp không bị mất cơ hội trong công cuộc chuyển đổi số và xanh…
Chuyển đổi số và chuyển đổi xanh đang trở thành động lực quan trọng giúp các quốc gia phát triển bền vững và khai thác tối đa lợi ích từ quá trình này. Việt Nam đã có các chiến lược quốc gia về kinh tế số, xã hội số và tăng trưởng xanh đến năm 2030-2050, đặt mục tiêu kinh tế số chiếm 25% GDP vào năm 2025.
Các doanh nghiệp đang đẩy mạnh ứng dụng công nghệ và hướng tới ESG. Nông nghiệp và công nghiệp điện tử là hai ngành tiên phong trong chuyển đổi kép. Ngành nông nghiệp coi đây là động lực đột phá giúp thích ứng thị trường, trong khi ngành điện tử bắt buộc phải chuyển đổi số để tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu.
Báo cáo HSBC tháng 10/2024 nhận định Việt Nam có lợi thế nhờ dân số trẻ, tỷ lệ sử dụng internet cao và tiềm năng năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, thách thức về chi phí đầu tư, chính sách, nhân lực và tiếp cận vốn vẫn hiện hữu. Để thành công, Việt Nam cần đầu tư mạnh vào hạ tầng, giáo dục số và cơ chế hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp.
Thị trường Tín chỉ Carbon
Công ty tư vấn và môi giới trên thị trường tín chỉ carbon Carbon Credits Vietnam- đang làm việc với 10 dự án bán tín chỉ, quy mô 500 ha, tập trung tại Phú Thọ. Với mức giá quanh 20 USD một tín chỉ, Tổng giám đốc Carbon Credits Vietnam cho hay một người trồng gù hương và thông ở Phú Thọ chờ thu về 800 USD mỗi ha sau khi xác lập bán tín chỉ vào cuối năm nay.
Theo xếp hạng tín chỉ từ Công ty nghiên cứu thị trường và dữ liệu AlliedOffsets, loại từ năng lượng tái tạo có chất lượng thấp và giá rẻ nhất. Các loại tín chỉ khác như lâm nghiệp và sử dụng đất, nông nghiệp bền vững, giao thông, xử lý rác… chất lượng cao hơn. Riêng với rừng, các dự án trồng mới, tái trồng rừng (ARR) có mức giá cao vượt trội.
Ngoài ra, tín chỉ từ công nghệ than sinh học (biochar) cũng được quan tâm. Thời hạn trữ lâu, tỷ lệ phân hủy carbon thấp giúp giá loại này lên tới 150 USD, gấp 7,5 lần tín chỉ ARR.
Thực tế, các doanh nghiệp đã tăng tốc làm tín chỉ carbon từ năm ngoái. Cuối 2024, Công ty Idemitsu Kosan, Sagri (Nhật Bản) và Mía đường Lam Sơn thí điểm trồng mía bán tín chỉ trên 500 ha vùng nguyên liệu tại Lam Sơn (Thanh Hóa). Họ tiến tới thương mại hóa trên quy mô 8.000 ha, trong bối cảnh sản xuất 1 kg mía phát thải 0,5 kg khí CO2.
Không bỏ lỡ thị trường tiềm năng này, VinaCapital lập Quỹ đầu tư VinaCarbon năm 2023 nhắm vào các dự án và doanh nghiệp có khả năng tạo ra tín chỉ carbon chất lượng cao. Danh mục đầu tư ban đầu của quỹ tập trung vào các dự án sản xuất than sinh học, phát triển lâm nghiệp bền vững, nông nghiệp phát thải thấp, sử dụng năng lượng hiệu quả và các giải pháp xử lý chất thải nhằm giảm thiểu phát thải khí nhà kính. Quỹ này đang trong giai đoạn xây dựng danh mục chiến lược và nhận được sự quan tâm lớn từ các nhà đầu tư trong nước, quốc tế, theo ông Vũ Chí Công – Giám đốc Quỹ đầu tư VinaCarbon.
Nhưng phát triển một dự án xác lập tín chỉ carbon không dễ. Với rừng trồng mới, một số điều kiện bắt buộc gồm không có tình trạng chặt trắng rừng trong 5-10 năm trước khi thực hiện dự án, dùng phân hữu cơ, trồng xen canh với cây bản địa… Quy trình tạo tín chỉ carbon từ lập dự án-thẩm định, đăng ký-giám sát và kiểm chứng đến khi phát hành mất 2-3 năm.
“Ngoài yêu cầu trồng đa dạng 3-5 loài thân gỗ, chúng tôi hiện tập trung vào đất tư nhân, tức chủ rừng phải sở hữu mảnh đất đó để thuận tiện giao dịch tín chỉ”, bà Mai Hà Phương – Giám đốc marketing Carbon Credits Vietnam nói, thêm rằng quy mô để triển khai dự án bán tín chỉ carbon nên từ 20 ha để tối ưu nguồn thu cho chủ rừng sau khi trừ chi phí.