Thôn Xuân Trung, Xã An Xuân, Huyện Tuy An

Tỉnh Phú yên, Việt Nam

info@vuonuomtrekhonglo.com

Giờ liên hệ: 08:00-21:30

(+84) 967 919 950

Hỗ trợ 24/7, tư vấn qua Zalo

Kỹ Thuật Trồng và Chăm Sóc Tre

Công Dụng Cây Tre

Trước đây cây tre trồng dùng để chắn sóng, chống sụt lở bờ sông, bờ đê, làm nhà cửa, nông cụ, làm giấy, làm khí giới, sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, dụng cụ thể dục thể thao, nhạc cụ, bàn ghế, tủ giường chiếu từ thô sơ đến cao cấp, làm thuốc chữa bệnh, làm thực phẩm cho người. Đặc biệt ngày nay cây tre đóng vai trò quan trọng trong việc sản xuất vật liệu xây dựng như ván ép, bê tông nhẹ, ốp tường nền… thay thế gỗ và cốt thép.

 Tre trúc đã được người dân Việt Nam gây trồng từ lâu đời theo lối quảng canh, mục đích chủ yếu là khai thác thân cây tre một phần có kết hợp lấy măng. Những năm gần đây nước ta đã du nhập giống tre lấy măng chủ yếu từ Trung Quốc đem về trồng ở nhiều địa phương trong cả nước, theo hướng chuyên sản xuất măng.

Ngày nay cây tre đóng vai trò quan trọng trong khí thải nhà kính, tre có thể hấp thụ lượng CO2 nhiều hơn tới năm lần so với cây thông. Trong khi mỗi loại cây đều có vai trò riêng trong hệ sinh thái, thì cây tre có tiềm năng cao trong việc chống lại một lượng lớn CO2 một cách hiệu quả. Ngoài ra, tre hấp thụ các chất ô nhiễm từ không khí, giúp cải thiện chất lượng không khí

tre-khong-lo.png

Đặc tính sinh học Cây tre

Tre trúc là loài thực vật thuộc họ phụ Bambusoideae, họ Poaceae, lớp một lá mầm, là loài cây ưa sáng mọc nhanh. Trên thế giới người ta đã tìm gặp được 1250 loài, trong đó Châu Á chiếm 900 loài (72%) số còn lại ở Châu Phi, Nam Mỹ, không gặp loài nào có nguồn gốc tại Châu Âu và có rất ít loài bản địa ở Châu Úc. Việt Nam có 92 loài, phân bố từ miền núi, trung du đến đồng bằng trên cả hai miền nam bắc Việt Nam.

Khác với cây thân gỗ, tre không có cấu tạo tượng tầng nên không có quy luật hình thành vòng năm, cây có một thân chính hình tròn, rỗng, suôn thẳng và hơi cong ở phần ngọn. Cây sinh sản bằng hai con đường hữu tính và vô tính, nhưng chủ yếu vẫn là sinh sản vô tính bằng thân ngầm hay thân khí sinh (gốc tre hay cành tre).

 Tre thường mọc thành bụi, mỗi bụi có nhiều thân khí sinh, các bụi tre xuất phát từ thân ngầm (Rhizomes). Các thân ngầm này lại xuất phát từ nách của thân ngầm cũ. Một khi măng nhú lên khỏi mặt đất với đường kính đạt kích thước của thân khí sinh và sau đó không tăng lên đáng kể, khi măng lớn lên, các mo rụng dần. Trên bề mặt của mo thường có nhiều lông tơ và tận cùng của mo có lá mo.

Tiết diện ngang của măng thường có hình tròn, rỗng với vách mỏng hay dầy, khi măng nhú lên khỏi mặt đất có màu xanh và thường có lông tơ hay một lớp sáp bao bọc. Thông thường các đốt tre có hình vòng tròn, là nơi phát sinh cành và một vòng rễ ở bên dưới đặc trưng cho từng chi. Sự phân cành trên các đốt kế tiếp theo hướng đối xứng và so le nhau. Cành mang nhiều nhánh nhỏ theo một dạng thức đặc sắc cho từng chi. Thông thường các nhánh nhỏ có mang lá, lá hình lưỡi mác có kích thước thay đổi tùy theo loài.

Phần lớn tre trúc mọc tự nhiên ở độ cao dưới 500m so với mặt nước biển, thích hợp ở vùng khí hậu nóng ẩm, có lượng mưa trung bình 1500mm-2500 mm/năm, nhiệt độ bình quân 21-270C, cây mọc thích hợp ở những đất có tầng canh tác dầy, nhiều mùn, ẩm, có thành phần cơ giới nhẹ và thoát nước tốt.

Chọn Cây giống và nhân giống

Các phương pháp nhân cây giống

  Khi sản xuất được mở rộng, nhu cầu về giống cũng tăng theo và phương pháp nhân giống cũng không ngừng cải tiến. Cây tre được nhân giống chủ yếu bằng phương pháp gieo hạt hoặc giâm cành. Cây tre có thể được trồng từ hạt. Hạt được thu nhận vào cuối vòng đời của cây tre và mỗi loài có mỗi chu kỳ khác nhau (3 – 120 năm). Cây tre sau khi ra hoa và kết hạt thì cây sẽ chết đi và phụ thuộc vào điều kiện địa lý, khí hậu hay thổ nhưỡng thì cây mới có thể ra hoa được.

     Cả 2 phương pháp nhân giống này là tương đối đơn giản, tiết kiệm và được thực hiện ở điều kiện vườn ươm. Tuy nhiên, phương pháp này có một số điểm hạn chế như hệ số nhân giống thấp, chất lượng cây giống kém vì các đoạn chồi thu nhận từ cây mẹ sẽ bị thoái hóa hoặc nhiễm virus sau vài thế hệ. Do đó, người dân luôn cần một số lượng lớn cây giống sạch bệnh để phục vụ sản xuất.

   Cây giống nuôi cấy mô được chứng minh là phương pháp hữu hiệu để nhân nhanh giống cây trồng với số lượng lớn trong thời gian ngắn và đồng nhất về kiểu gen. Sự thành công của phương pháp vi nhân giống phụ thuộc rất nhiều quy trình nhân giống với các giai đoạn nuôi cấy khác nhau (khử trùng mẫu cấy và tạo nguồn mẫu ban đầu; tái sinh chồi ; nhân nhanh chồi; ra rễ in vitro) và khả năng thuần hóa cây giống trong điều kiện vườn ươm. Trong điều kiện in vitro, cây giống sinh trưởng trong điều kiện lý tưởng được kiểm soát như chất dinh dưỡng (đa lượng, vi lượng, vitamin), đường, agar, điều kiện nuôi cấy (ánh sánh, nhiệt độ, thoáng khí,…), pH,… đến giai đoạn thích nghi, cây giống sinh trưởng ở điều kiện vườn ươm với nhiều điều kiện thay đổi như nhiệt độ, độ ẩm, dinh dưỡng, giá thể,… những thay đổi này cũng ảnh hưởng đến khả năng sống sót và sinh trưởng của cây con.

Uu-diem-cua-phuong-phap-cay-mo-nong-nghiep.png

Phương pháp vi nhân giống ( nuôi cấy mô) thực vật là một trong những lĩnh vực ứng dụng đầy hứa hẹn nhất hiện nay và mở ra viễn cảnh tương lai. Lĩnh vực này bao gồm từ vi nhân giống các đối tượng cây trồng khác nhau và cũng bao gồm sản xuất các hợp chất dược phẩm có giá trị kinh tế và bảo tồn nguồn gen quý hiếm, đặc hữu. Tất cả các phương pháp công nghệ sinh học (kỹ thuật di truyền, cảm ứng đơn bội hoặc biến dị dòng soma) để cải thiện các đặc điểm cây giống và chất lượng cây giống phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống tái sinh cây trong ống nghiệm hiệu quả. Việc sản xuất nhanh chóng cây giống chất lượng cao, không có bệnh và đồng đều chỉ có thể thực hiện được thông qua vi nhân giống.

So sánh các phương pháp nhân cây giống hiệu quả

Đặc điểm
Gieo hạt
Giâm cành
Nuôi cấy mô
Quy trình nhân giống
Chuẩn bị giá thể (đất + cát + compost) > lựa chọn hạt giống > chuẩn bị hom giống > lên luống và tưới nước > gieo hạt > hạt nảy mầm (5 – 25 ngày) > chuyển cây giống sang giá thể khác (đất + cát + phân chuồng + xơ dừa) > sinh trưởng cây giống > thích nghi ở vườn ươm > thu nhận cây giống Quy trình nhân giống đơn giản, dễ thực hiện nhưng trải qua rất nhiều bước và nhiều giai đoạn
Lựa chọn cành giâm > xử lý ra rễ > hom giống > trồng trực tiếp hom giống Quy trình nhân giống đơn giản, dễ thực hiện
Lựa chọn nguồn mẫu ban đầu > khử trùng và tạo nguồn mẫu in vitro > phát sinh hình thái > tạo cây hoàn chỉnh > thích nghi vườn ươm > trồng cây giống Quy trình trải qua nhiều giai đoạn ở phòng thí nghiệm được kiểm soát
Mầm bệnh và giống
Nấm, khuẩn, virus truyền từ cây mẹ hoặc từ giá thể nuôi trồng chưa xử lý kỹ Phân lý tính trạng
Nấm, khuẩn, virus truyền từ cây mẹ Thoái hóa giống
Kiểm soát được mầm bệnh Cây sạch bệnh (nuôi cấy đỉnh sinh trưởng)
Hệ số nhân giống
Hệ số nhân giống thấp Phụ thuộc vào chất lượng hạt giống và tỷ lệ nảy mầm
Hệ số nhân giống thấp 1 cây mẹ chỉ có thể tạo ra 1 – 2 cây con
Hệ số nhân giống cao 1 mẫu mô của cây mẹ ban đầu có thể tái sinh hàng trăm đến hàng ngàn cây giống Có thể lưu trữ mẫu ở các giai đoạn sinh trưởng khác nhau như tái sinh, nhân nhanh, ra rễ,… từ đó rút ngắn quy trình nhân giống và sản xuất cây giống hàng loạt
Tính đồng đều
Cây con phụ thuộc vào việc lựa chọn hạt giống ban đầu Sự đồng đều phụ thuộc vào thời gian nảy mầm và chế độ chăm sóc – phân bón
Cây con phụ thuộc vào việc lựa chọn cành giâm ban đầu
Cây con được lựa chọn tương đồng về kích thước, kiểu dáng, giai đoạn sinh trưởng Cây giống được trẻ hóa
Quy mô sản xuất
Quy mô nhỏ lẻ, phục vụ diện tích nhỏ, hộ gia đình với diện tích nhỏ
Quy mô nhỏ lẻ, phục vụ diện tích nhỏ, hộ gia đình với diện tích nhỏ
Quy mô sản xuất công nghiệp Có thể sản xuất hàng triệu cây giống
Vận chuyển
Vận chuyển khoảng cách gần do cây cồng kềnh
Vận chuyển khoảng cách gần do cây cồng kềnh
Cây giống có thể vận chuyển đi xa với đa dạng kích thước cây giống và giai đoạn phát triển.
Tỷ lệ sống sót
Tỷ lệ này mầm thấp, thướng <50% Một số giống không ghi nhận nảy mầm
Phụ thuộc vào mùa vụ sản xuất cây giống Tỷ lệ ghi nhận khoảng 50%
Chủ động sản xuất cây giống quanh năm Cây giống đạt chất lượng và chuẩn hóa trước khi trồng Tỷ lệ ghi nhận khoảng > 85%
CAY-TRE-–-Tiem-nang-cho-nganh-cong-nghiep-TY-DO.png

Chọn cây giống

   Đối với các loài tre nói chung có nhiều cách nhân giống từ thân ngầm, hom gốc, thân khí sinh (hom thân), hom cành hay trồng bằng hạt, nuôi cấy mô tế bào. Khi nhân giống nên chọn những bụi (khóm) tre phát triển tốt, không sâu bệnh, chưa ra hoa. Lựa những cây không quá non hoặc quá già (bánh tẻ), khoảng 7-8 tháng tuổi để làm giống. Ở các tỉnh miền Trung thường lấy hom giống từ tháng 12 đến tháng 2 (kết thúc mùa mưa) hàng năm để giâm.

Nhân giống bằng hom gốc

  Nhân giống tre bằng hom gốc, hom gồm có một phần thân khí sinh (thân tre) khoảng 7-8 tháng tuổi, có 3 lóng dài từ 80-100cm, có đường kính từ 7cm trở lên, mang một thân ngầm, có chồi mầm không dập nát, không bị thối, đem ươm ở vườn ươm thời gian từ 3 – 4 tháng xuất vườn đem trồng, cây sẽ có tỷ lệ sống cao.

Nhân giống bằng hom thân

Chọn cây tre 7-8 tháng tuổi cưa ở gốc, phần tiếp giáp với thân ngầm, đem về đục lỗ trên các lóng theo hướng thẳng góc với cành, rồi đem đặt ở các luống tại vườn ươm, lấp đất vừa đủ kín thân cây tre (đất vườn ươm đã được cày bừa và bón phân hữu cơ đầy đủ). Kế tiếp đổ nước vào các lóng tre cho đầy rồi đậy lại để giữ ẩm, vườn ươm có làm giàn che mát 70-80%, tưới ẩm thường xuyên.

Sau 1 tháng dỡ bỏ giàn che, nuôi cây trong vườn khoảng 3 tháng, khi cây ra cànhmới và rễ thứ cấp thì bứng lên, cưa từng đoạn đem trồng.

Nhân giống bằng hom cành

  Nếu nhân giống bằng hom cành đòi hỏi phải có nhiều kinh nghiệm và công sức. Chọn cây tre 7-8 tháng tuổi, chọn cành bánh tẻ (khi trên cành còn lưu lại một vài mo nang), phần gốc của cành có đường kính > 0,8cm, đã có rễ phát triển, dùng cưa cưa gốc cành theo chiều từ dưới lên sâu ½ đường kính của gốc cành, cắt ngắn bớt cành để lại chừng 2-3 lóng. Dùng giá thể đã trộn sẵn rơm hoặc xơ dừa + đất + chất kích thích ra rễ IBA hoặc NAA, nồng độ 100ppm (Indol Butyric Acid và Napthil Acetic Acid), đủ ẩm bó vào gốc cành, rồi dùng bao nylon có đục nhiều lỗ bọc chặt lại, tưới nước giữ ẩm.

Sau 20-30 ngày kiểm tra thấy cành nào ra rễ mới, cắt xuống đưa vào bầu đất (bầu đất gồm 90% đất thịt pha cát + 9% phân chuồng hoai + 1% Super lân). Đặt bầu vào thànhtừng luống che mát 70-80%, tưới ẩm thường xuyên.

Sau 1 tháng dỡ bỏ giàn che từ từ, nuôi cây trong vườn khoảng 3 tháng, khi cây ra nhiều rễ, cành lá mới thì đem trồng.

Nhân giống bằng phương pháp cấy mô

   Hiện tại, giống tre khổng lồ Dendrocalamus Giganteus, Dendrocalamus Asper, Dendrocalamus Sinicus, và giống tre thép Guadua angustifolia do HTX Nông lâm nghiệp và Dịch vụ Liên Xuân Phát cung cấp chỉ được sản xuất bằng phương pháp nuôi cấy mô nên chất lượng cây giống đồng đều, cây sinh trưởng phát triển khỏe, không nhiễm sâu bệnh hại và có thể nhân nhanh số lượng lớn trong thời gian ngắn.

Kỹ thuật trồng tre

  Tre là loài cây ưa sáng, nhưng vẫn chịu bóng nhẹ, do vậy có thể trồng tre ngoài đất trống, dưới tán các cây khác như trồng hỗn giao với một số loài cây rừng có tán thưa, tuy nhiên tỷ lệ che bóng không quá 30%. Ngoài ra còn có thể trồng hỗn giao theo băng rộng 50m, trồng một bằng cây rừng rồi đến một bằng cây tre và lập lại như cũ, tốt nhất là bố trí hàng theo hướng đông tây, nơi có độ dốc cao thì trồng theo đường đồng mức.

Chọn đất trồng tre

  Các loài tre đều ưa thích tầng đất dày, tơi xốp nhiều mùn, ẩm nhưng thoát nước tốt, nhất là các loại đất phù sa ven sông suối, đất nương rẫy còn mang tính chất đất rừng. Không trồng tre trên đất mặn, đất có tầng canh tác mỏng, đất đá ong hóa, đất cát khô rời rạc, đất bị úng ngập, hoặc quá bí chặt.

 Trường hợp đất nghèo xấu, nhiều sỏi đá cần áp dụng biện pháp cải tạo đất như đào hố to rộng, bón nhiều phân hữu cơ, che tủ đất bằng rơm rạ, tưới nước, trồng xen cây họ đậu để làm phân xanh.

Chọn thời vụ để trồng tre

  Đối với tre, việc trồng đúng thời vụ sẽ quyết định tỷ lệ sống cao. Ở miền Duyên hải Nam Trung Bộ, thời vụ trồng tốt nhất là đầu mùa mưa từ tháng 8-9, khi khi bắt đầu có những cơn mưa đầu mùa. Những vùng chủ động nguồn nước tưới có thể trồng quanh năm nhưng phải chú ý tránh các giai đoạn nắng nóng, các đợt gió Tây Nam (Gió Lào) thổi mạnh (tháng 4-7 hàng năm) sẽ ảnh hưởng lớn đến sự phục hồi sau trồng của cây con

Chuẩn bị đất trước khi trồng

  Nơi đất nghèo dinh dưỡng nên trồng cây họ đậu trước một năm để cải tạo đất, khi thu hoạch cần vùi lấp toàn bộ cây họ đậu để làm tốt đất. Trồng tre lấy măng nên chọn đất bằng phẳng có độ dốc nhỏ hơn 10là tốt nhất, trường hợp phải trồng tre trên đồi dốc >100 có thể dùng biện pháp đào rãnh dài 2m sâu 60cm, theo đường đồng mức, bố trí so le hình nanh sấu để vừa chống xói mòn đất. 

   Hố nên đào trước một năm đổ rác, bã mía, lá cây, rơm rạ, rồi lấp đất để cho hoai mục giúp đất tơi xốp giàu mùn, tạo khoảng tơi xốp rộng hơn cho rễ cây trồng phát triển.

  Trường hợp không đào rãnh thì đào hố có kích thước 60 x 60 x 60cm, trước khi trồng cần bón lót mỗi hố tối thiểu 10-15kg phân chuồng hoai mục (hoặc 5-6 kg phân hữu cơ vi sinh) + 0,6 kg phân NPK 16-16-8 (chú ý không được bón phân chuồng tươi vì dễ gây sâu bệnh cho cây và quá trình phân huỷ phân tươi sinh nhiệt ảnh hưởng đến bộ rễ làm chết cây trồng).

Trong-tre.png

Trồng cây

    Cây giống sau khi xuất vườn phải được trồng ngay trong ngày, cẩn thận khi vận chuyển để tránh làm dập các chồi non. Mật độ trồng khoảng 286 cây/ha là vừa (trồng theo cự ly 5 x 7m). Khi trồng tre dùng cuốc trộn đều hỗn hợp phân với đất cho đều, đặt cây giống xuống hố sao cho mặt bầu thấp hơn mặt đất 5-7cm (không quá 10cm), dùng đất nhỏ mịn lấp đầy hố.

   Lấp đất theo phương pháp “Ba lấp hai dận”: Ba lần lấp đất chỉ hai lần đầu dận chặt xung quanh bầu, lần 3 không dận để lớp đất mặt tơi xốp và tạo mặt hố sau khi trồng.

  Trồng xong nên tưới nước thật đẫm, đảm bảo rễ cây tiếp xúc tốt với đất, dùng rơm rạ tủ chung quanh gốc cây một lớp dày 10 x 20cm để chống cỏ dại vào mùa mưa, giữẩm vào mùa khô.

Tiến hành trồng dặm ngay trong lần chăm sóc đầu tiên trên toàn bộ diện tích trồng rừng. Trồng dặm toàn bộ những cây bị chết và cây không có khả năng phát triển

Quản lý, chăm sóc và nuôi dưỡng

Hàng năm vườn tre thường được chăm sóc 3 lần vào đầu, giữa và cuối mùa mưa bằng phương tiện cơ giới như máy cày, máy kéo có gắn giàn phát cỏ và sử dụng nhân công chăm sóc những diện tích mà máy móc không làm được.

Nội dung chăm sóc: Phát toàn bộ dây leo, cây bụi trên toàn bộ diện tích. Rẫy cỏ, phá váng xung quanh hố trồng với đường kính 1m

Phòng chống cháy cho tre hàng năm là vấn đề cần phải được quan tâm đúng mức. Ngoài ra vào mùa sinh măng cần lưu ý không được thả gia súc vào vườn tre sẽ làm hư hại măng tre và thân tre. Áp dụng Quy phạm phòng cháy, chữa cháy rừng thông, rừng tràm và một số loại rừng dễ cháy khác (QPN8-86), được ban hành kèm theo Quyết định số 801/QĐ ngày 26/9/1986 của Bộ Lâm nghiệp (nay là Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn).

Có thể đưa các loài cây lương thực, thực phẩm, vào trồng trên đất mới trồng tre đã được cày bừa sẵn, như bắp lai, đậu các loại, bí đỏ, bí đao hay một số loài cây có củ khác như khoai môn, gừng.v.v.nhằm góp phần làm giảm chi phí chăm sóc, phòng chống cháy tre, có nguồn thu bổ sung, đầu tư cho cây trồng, thực hiện phương thức nông lâm kết hợp, lấy ngắn nuôi dài.

Bón phân

Mỗi năm bón thúc hai lần vào thời điểm tháng 2-3 và tháng 8-9. Dùng 15-30kg phân chuồng hoặc phân xanh đã ủ hoai (hoặc 10kg phân hữu cơ vi sinh) và 0,5-0,6kg phân NPK 16-16-8 bón cho mỗi bụi tre. Đối với tre phân chuồng là nguồn dinh dưỡng tốt nhất để tạo ra sản phẩm măng tre chất lượng cao.

Cách bón phân

 Đào rãnh nhỏ sâu khoảng 15-20cm xung quanh bụi tre cách gốc tre khoảng 0,5m rồi rải phân lấp kín đất lại. Nếu có thể tưới nước cho cây trong mùa khô sẽ giúp cây sinh trưởng tốt, tre có khả năng ra măng trái vụ, giá bán sẽ gấp nhiều lần so với măng chính vụ.

Tìm hiểu thêm

Maybe you could like

Các bài viết khác

  • All Posts
  • Blog
  • Các loại tre
  • Chăm sóc tre
  • Kỹ thuật
  • Lợi ích
  • Tin tức

Search posts

Tìm kiếm bài viết

Following us at here

Theo dõi chúng tôi:

Edit Template

© Website được tạo bởi Website Marketing 365